Báu vật đó là một cổ bản kinh Kim Cương thêu trên lụa có từ thời Tây Sơn và hai hiện vật gốm thời Lê mà giá trị văn hóa lịch sử của nó thuộc hàng quốc bảo, hiện đang được lưu giữ tại chùa Trúc Lâm, thành phố Huế.

Vào thời Khải Định (1916-1924), khi ra kinh đô Huế dạy Phật pháp, hòa thượng Phước Huệ – chùa Thập Tháp (Bình Định) nghe câu chuyện về bản kinh kim cương đã nhận định đây là một “pháp bảo”, truyền cho các đệ tử truy tìm. Sư bà Diệu Không – chùa Hồng Ân (Huế) đã lần ra tung tích bản kinh trong nhà một người dân và nhà chùa đã chấp nhận mua lại với giá cao, tương đương với bảy lượng vàng. Giá đó chủ yếu là giá của hộp gỗ được chạm trổ công phu, bởi chủ sở hữu lúc đó quý hộp gỗ hơn là bản kinh kim cương.

Đến viếng chùa Trúc Lâm hôm nay, dường như ai ở Huế cũng thường nghĩ ngay đến các pháp bảo của Phật giáo Huế đang được lưu giữ tại chùa.

Ấn tượng và cũng rất riêng biệt là bản thêu kinh Kim Cương là hiện vật thời Nguyễn nhà Tây Sơn, được đặt ở trước bàn thờ Phật tổ, ngay giữa chính điện. Bản thêu này đã được công nhận kỷ lục Việt Nam với nội dung: “Ngôi chùa có bản kinh Kim Cang (Cương) thêu trên gấm dài nhất Việt Nam” đầu tháng 5-2009 đã được tổ chức Sách VietKings tổ chức công nhận cho ngôi chùa này.

Bản kinh kim cương với khoảng 7.000 chữ Hán, được thêu bằng chỉ ngũ sắc các màu, gồm đỏ, vàng, xanh, trắng, lục cách đều và liên tục, trên nền gấm vàng có viền và lớp lót bằng vải điều, dài 2,47m, rộng 23,4cm. Nội dung gồm có ba phần, phần đầu có hai bản tựa, tiếp đến là toàn văn kinh Kim Cương và cuối cùng là lời bạt. Đây là bộ kinh kim cương thêu tay dài nhất Việt Nam.

Loading...

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Huế Hồ Tấn Phan, ở phần lời tựa là sự ca tụng về “cõi thâm sâu” của giáo lý Phật giáo được thực hiện trong bản kinh Kim Cương như chứng minh kinh Kim Cương là một trong những bản kinh Phật lấy lòng từ bi và dùng trí huệ soi sáng thế gian của nhà Phật để thế nhân thoát khỏi bể trầm luân, thoát khỏi cõi u minh, đi đến giải thoát…

Với ý nghĩa đó, hai nhân vật được nhắc tên trong bài tựa thấy bản kinh kim cương rất hay và cũng muốn thực hiện như vậy trong việc cai trị đất nước của mình. Bài tựa thứ nhất có câu mở đầu là “Thái thượng hoàng đế ngự chế…”, còn bài sau là “Cảnh Thịnh…”. Thời gian hoàn thành việc thêu cũng được ghi rất rõ là “Cảnh Thịnh bát niên thập nhất nguyệt sơ nhất nhật”, tức ngày 1 tháng 11 năm Cảnh Thịnh thứ tám (theo Dương lịch là ngày 16-12-1800).

Xưa nay, giới nghiên cứu cho rằng bài tựa thứ nhất là của vua Quang Trung và bài tựa thứ hai là của vua Cảnh Thịnh. Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng và khẳng định được điều này thì bản kinh càng có giá trị về mặt văn hóa và lịch sử vì những hiện vật văn hóa thời Tây Sơn phần lớn đã bị tàn phá sau biến cố thay đổi triều đại.

Phần lời bạt nằm cuối cùng bản thêu nói về việc thực hiện bản kinh kim cương thêu của ni sư Diệu Tâm, trụ trì chùa Sài Sơn (thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây), thêu với mục đích cúng dường đức Phật, cầu cho tổ tiên, ông bà siêu thoát. Lời bạt này cũng ghi lại rằng hễ thêu xong một chữ là ni sư niệm mười tiếng trong bộ kinh mình đang thêu như để gửi gắm ước nguyện lớn lao ấy.

Trước khi đến chùa Trúc Lâm, bản kinh cũng có đoạn đường đi ly kỳ: đoàn quân họ Nguyễn Phước (của triều nhà Nguyễn) khi ra Bắc tiêu diệt nhà Tây Sơn vào năm 1801 phát hiện bản kinh, đã tịch thu đem về Huế, thờ trong Khương Ninh các – một hình thức am (chùa) nằm trong khu vực cung Diên Thọ – Hoàng thành Huế. Bản in bị thất lạc trong dân gian một thời gian sau đó. Đến thời Khải Định thì sư bà Diệu Không mới tìm ra được như đã nói ở trên.

Ban đầu hòa thượng Giác Nhiên – chùa Tây Thiên (Huế) nhận bảo quản bản kinh kim cương, nhưng đến năm 1943, khi chùa Tây Thiên bị mất cắp một số đồ vật, bản kinh được chuyển về cho hòa thượng Thích Mật Hiển ở chùa Trúc Lâm và nằm tại đây cho đến ngày nay. Bản kinh nhìn chung còn nguyên vẹn nhờ được bảo quản tốt, nhưng trải qua thời gian hơn 200 năm, hiện trạng của bảo vật đang xuống cấp: chỉ thêu xuống màu, gấm vàng nhiều chỗ nứt rách và lớp lót nhiễu điều lỗ chỗ vết mực…

Loading...